Chào mừng bạn đến với ca đoàn Cecilia Kẻ Sặt!

Ca đoàn, một nhân tố sống động của cộng đồng dân Chúa _ Đỗ Vy Hạ (trích)

Ngay từ những ngày đầu thuở Giáo Hội mới khai sinh, mỗi khi có dịp hội họp lại với nhau để cử hành Phụng vụ, các tín hữu luôn dùng lời ca tiếng hát để tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa. Từ đó đến nay, vai trò của Thánh Nhạc trong Phụng Vụ vẫn được Giáo Hội đề cao và quan tâm cách đặc biệt, cho đó là ngôn ngữ và là thành phần thiết yếu của Phụng vụ trọng thể.

Trong “Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ” được ban hành ngày 05 tháng 03 năm 1967, Thánh bộ Nghi lễ còn đòi hỏi Thánh nhạc phải biểu lộ được sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật cao. Để đáp ứng đòi hỏi này, trong tất cả các nghi lễ Phụng vụ do Cộng đồng dân Chúa cử hành, dưới quyền chủ toạ của Đức Giám mục, Linh mục, hoặc các thừa tác viên có chức thánh, Ca đoàn, với khả năng ưu tú của họ, đã được chọn làm một thừa tác viên, một nhân tố sống động của Cộng đồng dân Chúa, với nhiệm vụ làm cho các nghi lễ thêm rực rỡ vui tươi và giúp cho giáo dân tham gia tích cực vào việc ca hát (1).

I. VAI TRÒ VÀ NHIỆM VỤ CỦA CA ĐOÀN

1. Định Nghĩa:
Ca đoàn là một tập thể các tín hữu, nhờ vào khả năng chuyên môn của họ về âm nhạc, được tuyển chọn giữa Cộng đồng dân Chúa để thi hành thừa tác vụ ca hát trong các nghi lễ Phụng vụ.

2. Vai Trò:
Là những người cử hành Phụng vụ cùng với Linh mục và các thừa tác viên khác, Ca đoàn đóng một vai trò nồng cốt là làm thế nào để lời ca tiếng hát của mình tăng thêm sự tưng bừng và linh động mà không làm mất đi vẻ tôn nghiêm, trang trọng và đạo đức của các nghi lễ Phụng vụ. 

Vai trò ca hát này đã được Thánh bộ Nghi lễ đề cao trong số 5 của “Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ” như sau: “Lễ nghi Phụng Vụ sẽ mang hình thức cao quí hơn, khi được cử hành kèm theo ca hát, khi mỗi thừa tác viên chu toàn đúng nhiệm vụ của mình, và khi có dân chúng tham dự. Thật vậy, dưới hình thức đó, lời cầu nguyện được diễn tả thâm thúy hơn; mầu nhiệm Phụng vụ với những đặc điểm có tính cấp bậc và cộng đồng được biểu lộ rõ ràng hơn; lòng người hợp nhất với nhau hơn nhờ cùng hát chung một giọng ca, và tinh thần của con người cũng dễ dàng được nâng cao hơn, nhờ được nhìn ngắm vẻ đẹp của sự vật thánh mà vươn tới những thực tại vô hình”. (2) 

Ở số 16, Thánh bộ Nghi lễ còn xác nhận thêm: “Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành Phụng vụ mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức của mình ra bằng lời ca tiếng hát”. (3) 

3. Nhiệm Vụ: 
Để có thể sắm đúng vai trò nồng cốt trên đây, Ca đoàn phải chu toàn ba nhiệm vụ Phụng vụ chính
của mình, đó là hát đúng những phần dành riêng cho mình tùy theo các loại bài hát, hát thay cho Cộng đoàn khi họ chưa được tập luyện đủ và giúp cho Cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát. (4)

Không phải ngẫu nhiên mà Thánh bộ Nghi lễ đã qui định nhiệm vụ của Ca đoàn một cách rõ ràng như thế! Nhìn vào giòng lịch sử Thánh nhạc, xưa nay vẫn còn tồn tại một vài quan niệm cực đoan sai lầm. 

Có nhiều Ca Xướng viên, nhiều Ca đoàn quá nặng phần trình diễn, chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã gạt bỏ Cộng đoàn sang một bên và độc quyền dành lấy phần ca hát. Họ thích chọn những bài đa âm hợp xướng, những bài hát khó, có tính cách chuyên nghiệp, vượt quá tầm hiểu biết và khả năng trình tấu của Cộng đoàn. Trong một cuộc thuyết trình tại Đại học Lausanne vào năm 1897, Giáo sư Eugène Rapin đã đưa ra nhận xét này: “Công giáo đẩy dân chúng tới chỗ thụ động, câm lặng... Họ ở trong Nhà Chúa để im lặng, để nghe, để tuân lệnh... Ngoài một vài trường hợp như rước kiệu, hành hương, họ hát đôi bài ca, sự tham dự của họ vào tác vụ thánh rất ít, hầu như không có; chỉ có tiếng Chủ tế, và trong lễ trọng, tiếng Ca đoàn hoặc Đơn xướng, đôi khi với sự phụ hoạ của dàn nhạc, được vang dậy để mọi người cùng nghe...” (5) . Thiết tưởng nhận xét đau lòng trên đây vẫn còn giá trị thực tiễn trong một số Giáo xứ và Cộng đoàn hiện nay! 

Ngược lại, có những Cộng đoàn chủ trương “hát hay không bằng hay hát” đã loại bỏ tính nghệ thuật của Thánh nhạc. Họ chỉ thích hát cộng đồng, viện cớ rằng để giáo dân tham gia một cách tích cực và như thế, phủ nhận sự tồn tại hữu ích của Ca đoàn. Phải chăng đây là một xu hướng tầm thường hoá vai trò của Thánh nhạc trong Phụng vụ, đồng thời đi ngược lại đường hướng của Giáo hội vốn đòi hỏi “Thánh nhạc phải là nghệ thuật đích thực” (6) và “phải diễn tả được hình thức nghệ thuật cao”? (7) Hơn nữa, sự kiện một Cộng đoàn chỉ hay-hát-mà-hát-không-hay có thể dẫn đến sự lo ra chia trí, sự bực bội khó chịu của giáo dân, và còn có thể làm mất đi bầu khí thánh thiện và trang nghiêm của buổi cử hành Phụng Vụ. 

Bên cạnh đó, cũng có không ít những Cộng đoàn lại quá ù lì, thụ động, không muốn tham gia vào việc ca hát dù có được khuyến khích, cổ võ, mời gọi đến mấy đi chăng nữa! Họ thích nghe hơn thích hát, thích làm những khán giả thụ động hơn làm những người dự phần tích cực vào các nghi thức Phụng vụ. Thiết tưởng những lời khuyến cáo và niềm mong ước của Đức Giáo Hoàng Piô XII trong Thông điệp Mediator Dei cần được lập lại nơi những Cộng đoàn này: “Tín hữu luôn tham dự các cử hành Phụng vụ thánh không thể là những khán giả câm lặng và xa lạ... Họ phải cảm nhận sâu xa nét thẩm mỹ của Phụng vụ; họ phải lần lượt -theo luật định- góp tiếng với Chủ tế và Ca đoàn... Ước gì tiếng của toàn dân vọng lên tới trời, đồng nhất và mạnh mẽ như tiếng sóng đại dương, biểu lộ nhịp nhàng và sinh động sự hiệp nhất một trái tim, một tâm hồn, phù hợp với tình huynh đệ của các con một Cha chung” (8).

Vì thế, trong những buổi cử hành Phụng vụ, Ca đoàn chỉ nên đảm nhận phần chính yếu của việc ca hát, như hát những câu Phiên khúc (và hát câu Điệp khúc chung với Cộng đoàn), như khi phải sử dụng những bài hát đa âm, hoặc khi Cộng đoàn chưa được chuẩn bị kịp thời. Với vai trò là một thành phần nồng cốt -chứ không phải là toàn thể Cộng đoàn-, Ca đoàn như một hạt nhân, một chất xúc tác, một nhúm men trong đấu bột, có nhiệm vụ trợ giúp, nâng đỡ tiếng hát cho Cộng đoàn. Bên cạnh đó, Ca đoàn còn phải luôn cổ võ và khuyến khích Cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát, nêu gương cho họ bằng sự chuyên cần tập luyện, sự trau giồi học hỏi và sự trình tấu chu đáo các bài thánh ca (9). Đừng quên rằng: không riêng gì Chủ tế và Ca đoàn, mà tất cả Cộng đồng dân Chúa đều được mời gọi tham gia vào Phụng vụ một cách linh động và tích cực, nhất là bằng lời ca tiếng hát, bởi vì “tiếng hát của Cộng đoàn là ưu việt và không thể bỏ được” (10). 

4. Tầm Quan Trọng:
Nếu nói rằng “tiếng hát của Cộng đoàn là ưu việt và không thể bỏ được”, người ta càng phải chân nhận ra giá trị lớn lao và tầm mức quan trọng của Ca đoàn. Sự hiện diện của họ trong các Cộng đoàn là điều cần thiết và tất yếu, như “Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ” số 19 đã qui định rõ: “Phải có một “Ca đoàn”, hoặc “Những Ban hát Nhà Nguyện”, hoặc “Các Nhóm Ca viên”, và phải nghiêm túc phát triển những ban đó, nhất là ở các nhà thờ chánh toà và các đại thánh đường khác, cũng như trong các chủng viện và học viện. Trong các thánh đường nhỏ cũng nên thành lập những ca đoàn như vậy, dù là dưới hình thức khiêm tốn” (11).

Trong bài diễn từ nhân dịp Đại Hội lần thứ 10 của Các Ca Đoàn Hát Thánh Ca Trong Nhà Thờ, ngày 06 tháng 04 năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI còn xác quyết thêm rằng vai trò của các Ca đoàn thực sự rất hữu ích và bất khả thay thế, không chỉ trong lãnh vực ca hát mà còn trong lãnh vực sinh hoạt Cộng đoàn: “Ở cấp bậc nào, người ta cũng cần đến sự hiện diện của các bạn. Khả năng, óc nhận xét, thiện chí của các bạn lúc nào cũng có thể giúp ích cho nhà thờ hay cho họ đạo của các bạn, ngay cả những khi các bạn không họp nhau lại để ca hát hay trình tấu. Nhiệm vụ của các bạn vẫn quí giá và bất khả thay thế... Các bạn hãy vui vẻ, phấn khởi, ân cần và nhiệt tâm chu toàn sứ mệnh này!” (12)

Với một vai trò và trách nhiệm có tầm mức quan trọng như thế, Ca đoàn thực sự cần được các vị chủ chăn hướng dẫn, nâng đỡ và quan tâm cách đặc biệt, cũng như chính bản thân họ phải luôn hăng say tập luyện và chuyên cần trau giồi nghệ thuật. Như vậy, họ mới có thể chu toàn được sứ mạng “làm cho việc cử hành các mầu nhiệm thánh thêm rực rỡ vui tươi, đượm nhuần bầu khí linh thiêng” và “là nét biểu dương linh động về niềm vui Phục Sinh” (13).


II. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CA ĐOÀN

1. Thành Phần:
Trước kia, thành phần của Ca đoàn chỉ gồm các giáo sĩ hoặc các giáo dân nam giới. Giới phụ nữ không được thâu nhận. Mãi đến năm 1967, khi ban hành “Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ”, Thánh bộ Nghi lễ dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XII mới cho phép mở rộng thành phần Ca đoàn đến mọi tầng lớp giáo dân: “Tùy theo tập quán của mỗi quốc gia, và tùy theo những trường hợp khác nữa, Nhóm Ca viên có thể gồm hoặc nam giới và thiếu nhi, hoặc chỉ toàn nam giới, hoặc chỉ toàn thiếu nhi, hoặc nam giới và nữ giới, hoặc nơi nào hoàn cảnh đòi hỏi thực sự, chỉ có nữ giới mà thôi” (14). 

Về mặt nhân sự, con số ca viên thay đổi tùy theo hoàn cảnh của từng Giáo xứ hoặc từng Cộng đoàn. Ở quốc nội, một Ca đoàn trung bình -nói về lượng- gồm khoảng 30-50 ca viên và một Ca đoàn lớn có đến 60-70 ca viên. Ở hải ngoại, con số ca viên còn khiêm tốn hơn nhiều, chiêu mộ được 40 ca viên đã là một điều may mắn!

Về mặt chuyên môn, các ca viên được sắp xếp vào các bè khác nhau, tùy theo âm sắc và âm vực của giọng hát. Thông thường, mỗi Ca đoàn gồm có 4 bè chính (15):
- Bè Soprano (giọng kim) gồm các giọng nữ cao.
- Bè Alto (giọng mộc) gồm các giọng nữ thấp.
- Bè Tenore (giọng thủy) gồm các giọng nam cao.
- Bè Basso (giọng thổ) gồm các giọng nam trầm, thấp. 

2. Vai Trò Và Trách Nhiệm Của Các Thành Viên:
Vì là một đoàn thể với các sinh hoạt vừa có tính cách tôn giáo vừa có tính cách xã hội, Ca đoàn cũng cần được tổ chức theo một cơ cấu hành chánh, gồm có Ca trưởng, Ca phó, Thư ký, Thủ quỹ, Trưởng nhóm hoặc Trưởng bè và các Trưởng ban. Mỗi thành phần đều có vai trò và trách nhiệm của riêng mình.

a) Ca trưởng: 
Trong vài ba thập niên gần đây, Ca trưởng thường được chỉ định làm Ủy viên đặc trách Thánh nhạc của Giáo xứ. Như vậy, nhiệm vụ trước hết và trên hết của Ca trưởng phải là hướng dẫn Ca đoàn chu toàn thừa tác vụ Phụng vụ của mình, đồng thời là gạch nối giữa Cha xứ, Hội đồng Mục vụ và Ca đoàn. Ca trưởng có bổn phận điều hành, tuyển chọn và huấn luyện các ca viên không những về kỹ thuật chuyên môn mà còn về tác phong đạo đức nữa. Để hoàn thành những trách nhiệm trên đây, Ca trưởng phải tạo cho mình một tư cách đứng đắn, một bản lĩnh đáng nể phục và một uy tín đáng tin cậy. Ngoài ra, phần vụ chuyên môn của Ca trưởng là soạn bài, tập hát, và điều khiển Ca đoàn trong các nghi lễ Phụng vụ.

b) Ca phó:
Là người phụ tá cho Ca trưởng trong công việc điều hành, soạn bài, tập hát và điều khiển Ca đoàn, đồng thời thay thế Ca trưởng trong chức vụ Ủy viên đặc trách Thánh nhạc khi cần thiết.

c) Thư ký và Thủ quỹ:
Thư ký có nhiệm vụ lập danh sách Ca đoàn , lập biên bản các phiên họp, soạn thảo thư tín, thông tư, các giấy tờ liên hệ, và nếu cần, viết sổ tay nhật ký cho Ca đoàn. 

Thủ quỹ có nhiệm vụ lập sổ chi thu, bảo trì tài sản và phát triển ngân quỹ cho Ca đoàn. 

d) Trưởng nhóm hoặc Trưởng bè: 
Để tiện việc sinh hoạt, các thành viên của Ca đoàn thường được chia thành những nhóm nhỏ (hoặc theo vùng họ ở, hoặc theo bè họ hát) và do các Trưởng nhóm hoặc Trưởng bè hướng dẫn. Nhiệm vụ của Trưởng nhóm hoặc Trưởng bè bao gồm sự cộng tác đắc lực với Ca trưởng trong việc điều hành Ca đoàn; kêu gọi, đốc thúc và khuyến khích các nhóm viên tham gia đều đặn những sinh hoạt của Ca đoàn; thông tin, thu thập các ý kiến đóng góp; phân phát và thu nhặt các sách hát dùng khi sinh hoạt; đồng thời, lưu tâm đến đời sống tinh thần của từng nhóm viên -trong chừng mức giới hạn- để kịp thời nâng đỡ họ khi cần thiết. Riêng các Trưởng bè còn có bổn phận phụ giúp Ca trưởng và Ca phó trong việc tập bè các bài hát đa âm hợp xướng.

e) Các Trưởng ban: 
Các Trưởng ban là những người phụ trách các công việc đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ thuật chuyên môn, như Phụng vụ, Sinh hoạt, Ẩm thực, Tiếp tân, Báo chí và Liên lạc, Văn nghệ, Dàn nhạc, Âm thanh v.v... 

- Trưởng ban Phụng vụ phụ trách việc dẫn lễ, cắt cử người đọc Sách Thánh, Lời Nguyện Giáo Dân, người dâng của lễ trong các dịp lễ riêng của Ca đoàn; chuẩn bị sách hát, tổ chức và tập dợt các chương trình Dâng Hoa trong Giáo xứ. 

- Trưởng ban Sinh hoạt phụ trách lên chương trình, tổ chức và làm hoạt náo viên cho các sinh hoạt vui chơi ngoài trời và thể thao cho Ca đoàn như liên hoan, picnic, cắm trại, đi du ngoạn xa... và đồng thời có nhiệm vụ cắt cử và điều động nhân lực vào các công tác chung của Giáo xứ. 

- Trưởng ban Ẩm thực phụ trách việc giải lao cho Ca đoàn trong những buổi tập hát, hội họp, hoặc việc bếp núc trong những cuộc vui chơi và liên hoan. 

- Trưởng ban Tiếp tân phụ trách việc đón tiếp các quan khách trong những dịp lễ.

- Trưởng ban Báo chí và Liên lạc phụ trách việc thông tin, soạn lịch hát lễ, lịch sinh hoạt, cập nhật thường xuyên danh sách các thành viên của Ca đoàn, viết báo, làm nội san và phát triển trang nhà -home page- (nếu có).

- Trưởng ban Văn nghệ phụ trách việc soạn thảo, dàn dựng các tiết mục văn nghệ, sau đó phân công, tập dợt và tổ chức các chương trình văn nghệ trong Giáo xứ.

- Trưởng ban Nhạc phụ trách việc phối khí, tập luyện, phân công phân nhiệm cho các nhạc công và lo bảo trì các nhạc cụ.

- Trưởng ban Âm thanh phụ trách việc điều chỉnh âm thanh và chuẩn bị sao cho đủ micro dùng trong các buổi lễ. 

Ở các Ca đoàn lớn, đông nhân lực, còn có thêm những Trưởng ban khác như Trưởng ban Đồng phục (phụ trách về đồng phục và phù hiệu của Ca đoàn...), Trưởng ban Tài liệu (phụ trách in ấn, sắp xếp sách hát...) v.v...

f) Ca viên và Nhạc công:
Được tuyển chọn từ Cộng đồng dân Chúa, các Ca viên và các Nhạc công gồm những người có khả năng đàn hát, đến với Ca đoàn bằng một sự tự nguyện và hy sinh vô vị lợi (tuy nhiên, sự tự nguyện này không thể là một cái cớ để bào chữa cho sự lơ là, biếng nhác của mình!). Trách nhiệm trước hết của các Ca viên và các Nhạc công là sự hiện diện đông đủ, tham dự thường xuyên và đúng giờ các buổi tập hát, các nghi lễ Phụng vụ và các sinh hoạt của Ca đoàn. Ngoài khả năng đàn hát ra, mỗi Ca viên và mỗi Nhạc công còn được mời gọi nhiệt tình đóng góp thời giờ và ý kiến xây dựng vào sự thăng tiến và thành công của Ca đoàn.


Phần đông các Ca đoàn thường qui tụ những chức vụ đầu não vào một ban, gọi là Ban Điều Hành hoặc Ban Đại Diện, gồm có Ca trưởng, Ca phó, Thư ký và Thủ quỹ. Ban Điều Hành có những phiên họp định kỳ hằng tháng, hoặc hằng tam cá nguyệt để kiểm điểm, đúc kết và soạn thảo kế hoạch cho thời gian tới. Có nơi còn tổ chức một Ban Điều Hành mở rộng, qui tụ tất cả các Trưởng ban, để có thể gom góp thêm nhiều ý kiến, đồng thời có cơ hội đi sâu đi sát vào từng lãnh vực sinh hoạt của Ca đoàn. 

3. Vị Trí của Ca Đoàn Trong Nhà thờ:
Xưa nay, Ca đoàn thường được sắp xếp ở gác đàn, tầng lầu phía cuối nhà thờ. Ở một vài Giáo xứ, Ca đoàn được đưa về một bên cánh ở phía trước gian cung thánh. Thực ra, không có một vị trí bó buộc nào cho Ca đoàn. 
“Tuỳ cách xếp đặt ở mỗi nhà thờ, Ca đoàn sẽ được xếp chỗ thế nào:
a) Để cho bản tính của Ca đoàn được tỏ hiện, nghĩa là Ca đoàn vừa là thành phần của Cộng đoàn tín hữu, vừa phải chu toàn một nhiệm vụ đặc biệt.
b) Để các ca viên có thể chu toàn cách tốt nhất chức năng Phụng vụ của mình.
c) Để mỗi người trong nhóm có thể dễ dàng tham dự đầy đủ thánh lễ, nhờ việc rước lễ. Khi Ca đoàn gồm phái nữ thì phải xếp ngoài gian thánh ” (16).


III. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA CA ĐOÀN

1. Đối Nội:
Hoạt động đối nội của Ca đoàn là mối tương quan giữa Ca trưởng với Ban Điều Hành, giữa Ca trưởng với các Ca viên, và giữa các Ca viên với nhau. Mặc dù mỗi thành viên đảm nhận một chức vụ, một trọng trách khác nhau, nhưng tất cả làm thành một tập thể, một gia đình mà nền tảng là Đức Ái. 

Là thành phần lãnh đạo, là bậc cha mẹ, mối tương quan giữa Ca trưởng và Ban Điều Hành là tinh thần hiệp nhất.

Là thành viên trong một gia đình, cư xử với nhau như anh chị em, mối tương quan giữa các Ca viên với nhau là tinh thần hiếu hoà.

Là thành phần chỉ huy hay chỉ là những người thừa hành, mối tương quan giữa Ca trưởng và các Ca viên là tinh thần khiêm hạ.

2. Đối Ngoại:
Hoạt động đối ngoại của Ca đoàn là mối tương quan giữa Ca đoàn với Giáo xứ, với các đoàn thể trong Giáo xứ và với các Ca đoàn bạn.

Với Giáo xứ, Ca đoàn cần giữ một thái độ tôn kính và vâng phục, để sẵn sàng cộng tác với Cha xứ và Hội đồng Mục vụ, cũng như đóng góp tài năng và công sức vào những hoạt động của Giáo xứ. 

Với các đoàn thể khác trong Giáo xứ (như Đoàn Thanh niên, Đoàn Liên minh Thánh Tâm, Hội các bà mẹ Công giáo, Đoàn Thiếu nhi Thánh Thể v.v…), thái độ phải có của Ca đoàn là sự hoà đồng và sự khiêm tốn. Ngoài thừa tác vụ ca hát hay ngoài những hoạt động tông đồ, một thành viên Ca đoàn hoặc một thành viên Liên minh Thánh Tâm cũng chỉ là những giáo dân bình thường (không có gì để tự phụ khoe khoang) với cùng một sứ mạng: đồng lao cộng khổ cho sự thăng tiến của Giáo xứ.

Với các Ca đoàn bạn, sự ngưỡng mộ và sự chia sẻ là những thái độ cần thiết. Phải biết ngưỡng mộ để nhận ra những nét hay vẻ đẹp của bạn mà khen ngợi, học tập và bắt chước; đồng thời phải biết chia sẻ những hiểu biết và những kinh nghiệm cho nhau. 



IV. NHỮNG YẾU TỐ CĂN BẢN

1. Giá Trị Đạo Đức và Nhân Bản:
Để có thể chu toàn thừa tác vụ Phụng vụ một cách hiệu quả, Ca đoàn trước hết phải là những con người đạo đức, có đức tin và biết sống xứng đáng niềm tin của mình. Đây là điều kiện tiên quyết, bởi vì nếu là những người không có đức tin, làm sao họ có thể hiểu thấu để rồi diễn tả lời kinh Phụng vụ được. Các thành viên của Ca đoàn cũng cần phải có đời sống cầu nguyện, để những lời ca tiếng hát họ cất lên trong tâm tình cầu nguyện sẽ có giá trị và giúp Cộng đoàn cùng cầu nguyện với họ. Mặc dù khi thi hành thừa tác vụ Phụng vụ, Ca đoàn chỉ phục vụ nhưng không (không nhận thù lao), họ vẫn phải luôn ý thức về ý nghĩa cao cả của sự hy sinh dấn thân này để làm việc hăng say hơn trong tinh thần đạo đức sốt sắng.

“Hội Thánh quí trọng và sẽ không ngừng tuyên dương và vui sướng nhìn nhận sự hỗ trợ lớn lao của họ (Ca đoàn) mang lại, giúp cho công việc Tông đồ của Hội Thánh được hữu hiệu… Khi họ chu toàn đầy đủ phận sự Phụng vụ của họ, họ không những chỉ đem lại vẻ mỹ quan hơn cho tác động thánh và gương mẫu tuyệt hảo cho tín hữu mà thôi, nhưng họ còn đem về cho chính họ một lợi ích thiêng liêng đích thực” (17).

Bên cạnh những phẩm giá đức tin và tinh thần cầu nguyện, Ca đoàn còn phải mặc lấy cho mình những giá trị nhân bản. Họ phải là những con người lịch sự, biết tôn trọng kẻ khác qua cung cách cư xử lịch thiệp, tế nhị, qua lời ăn tiếng nói thanh tao, nhã nhặn, và ngay cả qua cách ăn mặc trang nhã, kín đáo. Tưởng cũng cần nhấn mạnh thêm rằng tính ích kỷ, ghen tỵ và thói ưa chỉ trích, phe đảng là mầm mống của sự bất hoà cần phải khai trừ và loại bỏ, nếu không, Ca Đoàn sẽ tự hủy diệt mình!

2. Chuyên Môn và Kỹ Thuật:
Một khuyết điểm dễ nhận thấy của những người có trách nhiệm thâu nhận Ca viên là ít để ý đến khả năng ca hát của họ, sau đó lại không quan tâm đến việc huấn luyện cho họ về chuyên môn và kỹ thuật. Thực ra, muốn cho Ca đoàn mình đạt tới một trình độ cao và hát cho đúng nghệ thuật theo yêu cầu của Giáo hội là “âm nhạc dùng trong Phụng vụ phải có tính nghệ thuật đích thực” (18), mỗi thành viên phải tự học hỏi, tự huấn luyện mình thêm về những chuyên môn và kỹ thuật mà vị trí của mình đòi buộc. 

Ngoài một giọng hát tốt, mỗi Ca viên cần có một trình độ căn bản về nhạc lý, về xướng âm, và họ phải luôn chuyên cần luyện tập để có được một làn hơi phong phú và một lối phát âm chính xác, rõ ràng. Trong Thông Điệp Annus Qui (09-02-1749), Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV có nhắc nhở về việc ca hát phải giúp cho giáo dân hiểu rõ được lời ca như sau: “Thánh Augustinô đã khóc vì xúc động khi nghe lời kinh của Hội Thánh được hát lên du dương... Nhưng nếu vị Giám Mục thành Hippone sống ở thời chúng ta, Ngài sẽ còn khóc hơn nữa, không phải vì xúc động, nhưng là đau đớn bởi nghe nhạc mà không rõ lời!” (19)

Nói về các Nhạc công, những kinh nghiệm chuyên môn và kỹ thuật đệm đàn theo đúng qui luật của Thánh nhạc cũng rất cần thiết. Họ phải thành thạo các qui luật thánh ca và các qui luật về việc sử dụng nhạc khí, biết dùng những nhạc khí thích hợp cho Phụng vụ, những nhạc khí có âm thanh đượm màu trang trọng, trong sáng, dễ khơi dậy lòng sốt sắng cho giáo dân (20). Hơn nữa, vai trò chính yếu của tiếng đàn là nâng đỡ tiếng hát, vì vậy, các Nhạc công cũng không nên quá phô trương để tiếng đàn của mình lấn át tiếng hát, làm cho giáo dân không nghe rõ lời ca, cũng không cảm nhận được tâm tình cầu nguyện mà Ca đoàn muốn truyền đạt.

Đối với Ca trưởng là người trước hết chịu trách nhiệm về sự thành công hoặc thất bại của Ca đoàn, mức độ đòi hỏi về chuyên môn và kỹ thuật càng cao hơn, nhất là nghệ thuật điều khiển và sự hiểu biết tường tận về Phụng vụ và Thánh nhạc. Hiện nay, đa số các Ca đoàn chỉ phải phụ trách việc ca hát trong các Thánh lễ, vì thế, Ca trưởng phải biết đầu tư nhiều thời giờ và công sức vào việc nghiên cứu và học hỏi những vấn đề liên quan đến Thánh lễ như: Phải chuẩn bị một Thánh lễ như thế nào? Cách chọn bài hát ra sao? Đâu là những tiêu chuẩn cần thiết cho việc chọn bài hát đúng theo quan điểm của Giáo hội? v.v... 

Sau cùng, tưởng cũng cần lưu ý các Ca trưởng điều này là ngay từ buổi đầu khi mới gia nhập, các thành viên của Ca đoàn cần được hướng dẫn cho biết rõ vai trò và trách nhiệm của họ trong các nghi lễ Phụng vụ. Mỗi buổi tập hát, ngoài phần luyện giọng và luyện cách phát âm, cũng nên dành riêng khoảng 10-15 phút để cùng nhau học tập về Phụng vụ và Thánh nhạc, tìm hiểu thêm về những vấn đề liên quan đến việc ca hát trong nhà thờ, qua các Thông điệp, các Huấn thị, các Thông cáo v.v… Có ý thức và hiểu thấu được vai trò của mình, Ca đoàn mới hứng thú để thực hiện đúng và tốt sứ vụ thiêng liêng đó.

(1) Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ, số 16 và 19.
(2) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 64-68. 
(3) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 64-68.
(4) Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ, số 19.
(5) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 85-86.
(6) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 4.
(7) Huấn Thị Về Âm Nhạc Trong Phụng Vụ, số 4a.
(8) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 87.
(9) Thánh Ca Trong Phụng Vụ trang 91.
(10) Tài Liệu Universa Laus, Bản dịch của LM. Đỗ Xuân Quế.
(11) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 69.
(12) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 95-96.
(13) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 96.
(14) Thánh Ca Trong Phụng Vụ trang 92; Tài liệu Thánh Nhạc, trang 70.
(15) Điều Khiển Hợp Ca I, trang 18. 
(16) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 70.
(17) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 84.
(18) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 15.
(19) Thánh Ca Trong Phụng Vụ, trang 52.
(20) Tài Liệu Thánh Nhạc, trang 47-48.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét